Phân tích hình tượng Tnú trong “Rừng xà nu”

phan-tich-nhan-vat-tnu-trong-truyen-ngan-rung-xa-nu

Đề bài: Phân tích hình tượng Tnú trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành

Mở bài: Phân tích hình tượng Tnú trong “Rừng xà nu”

Truyện ngắn Rừng xà nu là tác phẩm xuất sắc viết về đề tài miền núi, đề tài chiến tranh, cách mạng. Truyện ngắn này đã đạt giải thưởng Văn học Nguyễn Đình Chiểu năm 1965. Rừng xà nu phản ánh cuộc đấu tranh của đồng bào Tây Nguyên chống Mỹ Ngụy, làm ngời lên lòng yêu nước bất khuất và sức sống kiên cường của người dân Tây Nguyên nói riêng, đồng bào miền Nam nói chung. Tác phẩm Nguyễn Trung Thành nổi bật ở cảm hứng lãng mạn và khuynh hướng sử thi trong văn học giai đoạn 1945 – 1975. Nổi bật lên trong truyện ngắn Rừng xà nu là nhân vật Tnú.

Thân bài: Phân tích hình tượng Tnú trong “Rừng xà nu”

Tnú là hình tượng điển hình cho tính cách người dân Tây Nguyên, điển hình cho con đường đấu tranh đến với cách mạng của người dân Tây Nguyên, làm sáng tỏ một chân lý thời đại đánh Mỹ: “chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”. Qua hình tượng nhân vật Tnú, người đọc còn thấy được nghệ thuật giàu chất sử thi ở truyện ngắn Rừng xà nu.

Ở Tnú vừa có những tính cách đặc trưng riêng, vừa điển hình cho tính cách Tây Nguyên. Tnú là người có tính cách trung thực, gan góc, dũng cảm, cái chất Tây Nguyên này đã thấm sâu vào Tnú từ khi còn nhỏ. Lúc Tnú và Mai dẫn đường tiếp tế lương thực cho cán bộ, được anh Quyết dạy cho cái chữ. Học chữ thua Mai, Tnú đã đập vỡ bảng, lấy đá đập vào chảy máu để đưa được cái chữ vào trong đầu. Điều đó chứng tỏ Tnú là một cậu bé có nghị lực và gan góc, kiên cường. Sự gan góc, dũng cảm của cậu bé Tây Nguyên này càng bộc lộ khi đối diện với kẻ thù. Làm liên lạc mang tài liệu cho cán bộ, gặp địch Tnú nuốt luôn tài liệu. Khi kẻ thù tra tấn đánh đập anh, chúng hỏi cộng sản đâu, Tnú dõng dạc đặt tay lên bụng trả lời “Ở đây này”.

Ở nhân vật Tnú, hình tượng đôi bàn tay gây một ấn tượng sâu sắc, hình tượng hai bàn tay là hình tượng mang tính cách, hai bàn tay khi còn lành lặn là đôi bàn tay nghĩa tình. Đôi bàn tay ấy còn biết cầm phấn học cái chữ anh Quyết dạy cho, cũng đôi bàn tay ấy đã lấy đá ghè đầu tự trừng phạt mình khi không học được cái chữ. Khi Tnú thoát khỏi ngục ở Kon Tum trở về, Mai đón anh ở tận đầu làng, chị cầm đôi bàn tay Tnú mà rưng rưng nước mắt. Đôi bàn tay Tnú bị giặc đốt giờ mỗi ngón chỉ còn hai đốt, vĩnh viễn không bao giờ mọc lại. Nhưng với đôi bàn tay cụt đốt ấy Tnú vẫn cầm vũ khí lên đường chiến đấu. Đó là đôi bàn tay mang sức mạnh căm hờn.

Trong cuộc sống cũng như chiến đấu, Tnú có tính kỷ luật cao, tuyệt đối trung thành với cách mạng. Tham gia lực lượng đấu tranh đánh Mỹ, Tnú rất nhớ quê hương nhưng anh chỉ về thăm quê khi được phép của cấp trên. Băng rừng, lội suối qua bao hiểm nguy Tnú mới về đến làng nhưng anh cũng chỉ ở lại quê đúng một đêm rồi lại lên đường về đơn vị.

Khi Tnú bị giặc đốt mười đầu ngón tay Tnú vẫn không kêu nửa lời: “Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, chảy ở ngực máu anh mặn chát ở đầu lưỡi, răng anh cắn nát môi anh rồi”. Tnú cắn răng chịu đựng bởi anh tâm niệm lời dặn anh Quyết, lời dặn của Đảng “người cộng sản không thèm kêu van”. Lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng của Tnú cũng giống như lòng trung thành của cụ Mết – người già bản vẫn thường dặn con cháu: “Đảng còn, sông núi này còn”. Từ lòng trung thành đối với cách mạng Tnú đã lên đường chiến đấu, mang theo niềm vui, sự tin tưởng vào thắng lợi cách mạng.

 

Tnú là người giàu lòng yêu thương nhưng cũng cháy bỏng căm hờn. Yêu thương hay căm hờn đều mang tính cách Tây Nguyên.

Tnú là người bạn nghĩa tình khi Mai còn nhỏ, người yêu thủy chung của Mai khi đã trưởng thành và là người chồng, người cha đầy trách nhiệm. Kẻ thù không bắt được Tnú, chúng đã bắt Mai và đứa con nhỏ đánh đập, hành hạ dã man để lung lạc tinh thần Tnú. Chứng kiến cảnh Mai vừa đứa con nhỏ bị dùng gậy sắt đánh đập dã man. Tnú xông ra cứu mặc dù trong tay không có vũ khí. Động lực nào đã thôi thúc Tnú để anh xông vào kẻ thù với tất cả sức mạnh hùm thiêng. Động lực ghê ghớm chỉ xuất phát từ một trái tim cháy bỏng yêu thương và căm hờn. Tnú cũng là người con nghĩa tình của buôn làng. Anh lớn lên trong sự yêu thương đùm bọc của người dân Strá. Tnú gắn bó tha thiết với mảnh đất quê hương với những cánh rừng xà nu. Anh thuộc lòng từng con đường mòn, từng con suối nhủ. Anh lên đường chiến đấu để giải phóng quê hương. Tnú xứng đáng là tấm gương chung để cụ Mết giáo dục con cháu.

Lòng căm thù của Tnú cũng mang tính cách Tây Nguyên. Tnú mang trong mình ba mối thù lớn: mối thù bản thân, gia đình và buôn làng. Lưng Tnú dọc ngang những vết dao chém, mười mấy ngón tay anh bị đốt, là những chứng tích tội ác của kẻ thù mà anh mang theo suốt đời. Vợ con anh bị chết thảm khốc dưới cây gậy sắt của giặc, là mối thù lớn của gia đình anh mà anh không bao giờ quên. Những cánh rừng xà nu bị giặc tàn phá, những người dân vô tội làng Xô Man bị giặc sát hại là mối thù mà anh không đội trời chung với Mỹ – Ngụy. Mang trong tim ba mối thù lớn ấy, với đôi bàn tay mỗi ngón chỉ còn hai đốt anh vẫn cầm vũ khí đi tìm những thằng Dục để trả thù. Đối với Tnú đã là giặc thì thằng nào cũng tàn ác như thằng Dục. Cuối cùng Tnú đã giết chết tên chỉ huy đồn địch ngay trong hầm cố thủ của hắn. Anh trừng phạt kẻ thù không phải bằng súng bằng dao mà bằng chính đôi bàn tay trừng phạt, đôi bàn tay quả báo. Kẻ thù đã gây tội ác thì chúng phải chết bằng chính chứng tích mà chúng gây nên.

Tnú không chỉ điển hình cho tính cách Tây Nguyên mà còn điển hình cho con đường đấu tranh đến với cách mạng của người dân Tây Nguyên. Làm sáng tỏ chân lý thời đại đánh Mỹ: “chúng nó đã cầm súng thì mình phải cầm giáo”.

Bi kịch của Tnú là bi kịch cá nhân nhưng đồng thời là bi kịch mang ý nghĩa điển hình cho con đường đấu tranh đến với cách mạng của người dân làng Xô Man. Người dân Strá cũng phải chịu bao đau thương như Tnú. Bà Nhan bị chặt đầu, cắt tóc, bêu đầu súng. Anh Xút bị treo cổ lên cây vả đầu làng. Mảnh đất và cánh rừng xà nu bị đạn pháo giặc tàn phá, cả rừng xà nu không cây nào không bị thương. Bi kịch Tnú khi chưa cầm vũ khí cũng là bi kịch của người dân làng Xô Man khi chưa giác ngộ chân lý: “Chúng nó cầm súng mình cầm giáo” (lời cụ Mết).

Tnú hội tụ trong mình sức mạnh cá nhân, sức mạnh thể chất và cả sức mạnh tinh thần. Anh cường tráng như một cây xà nu lớn. Chứa trong lồng ngực anh là sức mạnh phi thường, hoang dại của núi rừng Tây Nguyên. Chảy trong huyết quản anh là dòng máu anh hùng của Tây Nguyên bất khuất có từ thời Đăm San. Tnú gan góc, dũng cảm, không có sức mạnh tàn bạo nào có thể khuất phục được anh, dù sự tàn bạo ấy hiện hình thành lưỡi dao, thành mũi súng hay ngọn lửa…

phan tich hinh tuong tnu trong rung xa nu 4

Với sức mạnh cá nhân to lớn nhưng khi Tnú tay không trước kẻ thù tàn bạo có vũ khí thì anh vẫn thất bại đau đớn. Vợ con anh vẫn chết một cách thảm khốc. Anh không cứu được Mai và đứa con thơ, bản thân anh bị giặc bắt, bị giặc đốt mười đầu ngón tay. Lửa đốt bàn tay Tnú lại là lửa chảy từ nhựa xà nu. Cái thứ nhựa xà nu hiền lành, cái khói thơm ngạt ngào như đọng lắng quê hương ấy lại trở thành ngọn lửa hủy diệt chính đôi bàn tay đã vun trồng nên rừng xà nu, đôi bàn tay ấy đã từng chăm sóc cho cây xà nu. Đây là bài học xót xa, đau đớn khi người dân không cầm được vũ khí trước kẻ thù tàn bạo.

Tnú được cứu khi người dân Xô Man cầm vũ khí đứng lên tiêu diệt kẻ thù. Sau bao ngày vào rừng mài dao, mài rựa rèn giáo, rèn mác, sau bao ngày chuẩn bị vũ khí người dân Strá đã nhất tề nổi dậy, đi đầu là cụ Mết. Với sức mạnh của lòng yêu quê hương đất nước, họ đã chém gục thằng Dục, giết cả tiểu đội lính ác ôn, dập lửa cứu đôi bàn tay Tnú và giải cứu cho anh. Người dân làng Xô Man đã nổi dậy với cả sức mạnh tinh thần và sức mạnh võ trang để giải phóng buôn làng.

Con đường đấu tranh của Tnú từ sự bột phát đến tham gia lực lượng vũ trang đánh Mỹ là con đường đấu tranh từ tự phát đến tự giác của người dân làng Xô Man. Con đường ấy chính là phải vũ trang đứng lên chiến đấu tiêu diệt kẻ thù dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Nếu truyện ngắn Rừng xà nu đậm chất dân tộc và chất sử thi thì hình tượng nhân vật Tnú là sự minh chứng cho đặc điểm nghệ thuật này.

Tnú mang tính cách Tây Nguyên. Điển hình cho tính cách Tây Nguyên đó chính là tính cách của những người trung thực, gan góc, dũng cảm. Những con người giàu lòng yêu thương mà cũng cháy bỏng căm hờn. Những con người có lòng tin tuyệt đối vào cách mạng. Để khắc họa tính cách nhân vật Tnú, nhà văn chú ý miêu tả ngôn ngữ đối thoại thẳng thắn, ngắn gọn, chú ý miêu tả mạnh mẽ quyết liệt. Nếu cụ Mết có khí thế ào ạt như thác lũ Tây Nguyên thì Tnú có tinh thần kiên cường, bất khuất, tư thế vững chãi như núi rừng Tây Nguyên.

Cuộc nổi dậy của người dân Xô Man và cuộc đời bi tráng của Tnú được kể lại trong đêm anh về thăm làng. Dưới mái nhà ưng (nhà rông), những người dân làng Xô Man quây quần bên bếp lửa trong không khí một đêm thiêng liêng, bên bếp lửa bập bùng lời người già bản cất lên: “Nghe rõ chưa, các con, rõ chưa. Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tao chết rồi, phải nói lại cho con cháu: Chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”. Lời kể của cụ Mết trầm hùng vang lên như lời phán truyền của lịch sử. Nó gợi lại không khí của những lời kể “khan” rất quen thuộc ở người dân Tây Nguyên, những bài kể khan như hát suốt đêm nói về bộ tộc, bộ lạc, nói về chiến công của những người anh hùng. Cuộc đời bi tráng của Tnú và cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man là câu chuyện của hiện tại nhưng qua lời kể khan của cụ Mết thì câu chuyện của hiện tại đã mang không khí màu sắc lịch sử. Chính điều này đã tạo nên một khoảng cách sử thi, đã tạo nên sự chiêm ngưỡng mang tính chất sử thi. Nhân vật Tnú qua lời kể khan của cụ Mết làm người đọc liên tưởng đến vẻ đẹp của những người anh hùng, dũng sĩ của bản trường ca, các bản sử thi Tây Nguyên.

Kết luận: Phân tích hình tượng Tnú trong “Rừng xà nu”

Tiếp theo hình tượng nhân vật anh hùng Núp trong tiểu thuyết Đất nước đứng lên, Nguyễn Trung Thành (một bút danh khác của Nguyên Ngọc) đã xây dựng thành công nhân vật Tnú – một nhân vật mang tính cách điển hình cho Tây Nguyên bất khuất. Với Đất nước đứng lên viết trước đó và Rừng xà nu viết trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, Nguyên Ngọc thuộc số nhà văn đầu tiên đã mở cánh cửa văn học vào Tây Nguyên. Và trên mảnh đất này, ông đã xây dựng được những lâu đài nghệ thuật trong ký ức của người đọc và cho đến hôm nay Nguyên Ngọc vẫn là nhà văn viết đúng nhất, hay nhất về Tây Nguyên.

Rate this post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *