Phân tích nhân vật người vợ trong “Vợ nhặt”

Đề bài: Phân tích nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân

Mở bài: Phân tích nhân vật người vợ trong “Vợ nhặt”

Kim Lân là một trong những nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Ông là cây bút chuyên viết truyện ngắn. Thế giới nghệ thuật của ông chủ yếu tập trung ở khung cảnh nông thôn và hình tượng người nông dân. Ông hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lý của những người dân nghèo bởi họ rất gần gũi với sinh hoạt của ông. Vợ nhặt là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Kim Lân. Đến với truyện ngắn này, người đọc sẽ rất ấn tượng với nhân vật người vợ nhặt.

Thân bài: Phân tích nhân vật người vợ trong “Vợ nhặt”

Vợ nhặt được rút ra từ tập truyện Con chó xấu xí của Kim Lân. Tác phẩm có một cái tên thật độc đáo. Nhan đề của truyện vừa cho ta thấy sự rẻ rúng và số phận đau thương của người phụ nữ vừa phần nào hé mở giá trị tư tưởng của tác phẩm. Tên tác phẩm cho ta hiểu vấn đề được đề cập ở đây có liên quan trực tiếp đến một nhân vật phụ nữ trong truyện. Như vậy, nhân vật người vợ nhặt nằm trong hệ thống quen thuộc có tính phổ biến trong văn học từ xưa đến nay. Đã có rất nhiều nhà thơ, nhà văn quan tâm phản ánh chân thực số phận đau khổ và khẳng định phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ. Người “vợ nhặt” trong tác phẩm là một trong những nhân vật chính. Viết về người phụ nữ này, Kim Lân đã tìm được lối đi riêng cho mình. Ông phản ánh số phận bất hạnh của người phụ nữ trong nạn đói khủng khiếp và phát hiện ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ này như lòng ham muốn sống mãnh liệt, hiền hậu, đúng mực và niềm lạc quan, tin tưởng.

phan tich nhan vat nguoi vo trong vo nhat 1

Trước tiên, “vợ nhặt” có một số phận bất hạnh. Văn học từ xưa đến nay rất quan tâm phản ánh chân thực nỗi bất hạnh của người phụ nữ như ca dao than thân. Truyện Kiều, Cung oán ngâm khúc, Chinh phụ ngâm, Mợ Du…  Kim Lân cũng vậy, qua truyện ngắn này nhà văn cho người đọc thấy số phận bất hạnh đau thương của người phụ nữ. Nếu trước kia đẩy người phụ nữ vào số phận hẩm hiu, cực khổ là các tầng lớp thống trị đen tối, những thần quyền lễ giáo cổ hủ, đồng tiền… thì ở truyện ngắn Vợ nhặt ta thấy số phận người phụ nữ được đặt tương quan với nạn đói ghê gớm gắn liền với một sự kiện lịch sử của dân tộc. Hơn hai triệu người bị chết đói năm 1945. Số phận bất hạnh của người phụ nữ này được thể hiện qua ngoại hình, hành động, tâm lý. Vợ Tràng là một nhân vật đặc biệt: nhân vật này không có tên gọi, mà nhà văn gọi chị là “người đàn bà”, “thị” hoặc “người con dâu”. Đây là cách gọi khiến cho tính khái quát càng rộng: thời bấy giờ không chỉ có một mà có muôn vàn người đàn bà rơi vào cảnh ngộ đáng thương như thế.

Không ai biết gốc tích của người vợ nhặt, chỉ biết chị “ngồi vêu ra ở cửa kho, nhặt hạt rơi hạt vãi, hay ai có công việc gì thì họi làm”. Điều đó chứng tỏ thị không có công văn việc làm và đang đứng trước thảm họa đói. Ngoại hình của người vợ nhặt được Kim Lân miêu tả bằng những chi tiết tỉ mỉ: “cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt”. Khi tác giả quay ngược thời gian trở lại lần gặp thứ hai của thị với Tràng, người đọc thấy thị giống như bao kẻ đói khát. “Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy xọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Với ngoại hình trông rất tiều tụy, chị là hiện thân của những con người bần cùng, đói khát, tha phương cầu thực “tối đâu là nhà, ngã đâu là giường” (Nguyễn Khải). Với những chi tiêu miêu tả ngoại hình, Kim Lân cho người đọc thấy người phụ nữ này đã phải chịu đói nhiều ngày. Sự đói khát cùng đường làm chị mất đi những nét nữ tính.

phan tich nhan vat nguoi vo trong vo nhat 2

Bên cạnh ngoại hình, số phận bất hạnh của người vợ nhặt còn được thể hiện qua tâm lý, hành động của nhân vật này khi gặp Tràng. Ở tình huống gặp gỡ với Tràng, tâm lý của chị hiện lên rất chân thực. Đó là tâm lý của người phụ nữ đang bị đói khát. Lần đầu giữa lúc đang nhàn rỗi nghe câu hò buông ra của Tràng và những lời trêu ghẹo của bạn bè, thị đã “ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng. Một người đàn ông không quen biết rồi thị đùa bỡn với anh “liếc mắt cười tít”. Chuyện đùa chỉ có vậy, hình ảnh người đàn bà này không để lại dấu ấn sâu sắc gì với Tràng. Đến lần thứ hai, nhân vật xuất hiện bằng ngôn ngữ và cử chỉ được cá tính hóa rõ nét, chị sưng xỉa trách móc: “Điêu! Người thế mà điêu” làm Tràng không hiểu. Những lời thoại tiếp chứng tỏ người phụ nữ đã cố lái những chuyện không đâu vào mục đích thiết thân của mình là được ăn. Sự đói khát cùng đường đã biến chị trở thành kẻ táo tợn, trơ trẽn không cần giữ danh dự. Chị đã biến lời nói đùa thành thật. Khi được Tràng mời ăn “hai con mắt trũng hoáy của thị lập tức sáng lên”. Đây đúng là phản xạ của của một người đói, cái đói đang cào cấu ruột gan “Thế là thị ngồi sà xuống ăn thật”. “thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng”.

Trong văn học trước đó ta đã gặp những trang viết về cảnh cơ cực khốn cùng của con người vì đói: một bà lão nông dân đói lâu ngày tìm đến ăn một bữa nhưng lại bị chết (Một bữa no), một người cha vì miếng ăn và mất hết tình phụ tử “Trẻ con không được ăn thịt chó), một người vì đói mà ăn vụng vợ mấy miếng bánh… Nhưng trong Vợ nhặt, cái đói đã thử thách nhân cách của người phụ nữ ghê ghớm. Nạn đói như một cơn lũ khủng khiếp cuốn phăng đi bao sinh mệnh. Giữa dòng lũ đó thì tiếng nói mãnh liệt nhất là tiếng nói của bản năng, lòng mãnh liệt ham muốn, vì đói quá người phụ nữ ấy đã đẩy lùi sĩ diện không do dự ngập ngừng trong hành động của mình. Chị đã biến câu hò thành lời hứa, biến rủ rê vu vơ thành lời cầu hôn chính thức, biến tất cả đùa thành thật. Chị theo người đàn ông lạ về nhà mà không hề biết gia cảnh, tính tình của người ấy. Tất cả những hành động này đều vì đói khát, cùng cực. Tràng đã nhặt được vợ một cách thật dễ dàng. Tình huống này khiến người đọc suy nghĩ về về giá trị con người, đặc biệt là giá trị của người phụ nữ. Qua đó ta thấy, cái đói đã xô đẩy con người vào cảnh cùng đường tuyệt lộ. Cái đói đã tước đoạt nhân cách của người phụ nữ, làm cho giá trị của họ trở nên rè mạt. Người vợ nhặt là hiện thân cho số phận bất hạnh của người phụ nữ trong nạn đói đó.

Bị cái đói, cái khát đe dọa thủ tiêu, tha hóa nhưng trong người phụ nữ ấy vẫn ánh lên những phẩm chất đẹp đẽ. Ở hai lần gặp gỡ người phụ nữ đã dai dẳng bám theo câu hò và chuyện đùa trở thành thật. Khi được ăn thật chị biết đùa sau bữa ăn cho nhẹ nhàng “Hà, ngon! Về chị ấy thụt tiền thì bỏ bố”. Điều đó chứng tỏ chị chấp nhận ăn để thỏa mãn nhu cầu thiết thực cho bản thân nhưng vẫn còn vương vấn một chút sĩ diện, một chút e ngại cho cả Tràng vì giữa lúc đói kém này mà Tràng lại bị hao hụt tiền cho người khác. Chị không phải có bản tính xấu muốn lợi dụng người khác. Do vậy mà người đọc thấy thương chứ không khinh bỉ nhân vật. Kim Lân đã miêu tả nhân vật bằng những chi tiết rất tỉ mỉ và ông sử dụng những từ ngữ, những kiểu câu đối thoại của nhân vật rất phù hợp tới tâm lý, trình độ của họ. Qua đó, người đọc hiểu người đàn bà này cong cớn, trơ trẽn nhưng không lẳng lơ. Sự cong cớn, trơ trẽn là sản phẩm của cái đói chứ thị không có bản tính xấu và ác. Vì thế, gặp bàn tay đón đỡ của Tràng và bà cụ Tứ, vẻ đẹp đầy nữ tính của thị đã sáng dần lên. Trên con đường về nhà Tràng, người vợ trách chồng đã bỏ ra hai hào mua dầu: “hoang nó vừa chứ”, lời trách thể hiện trách nhiệm với gia đình, ý thức thu vén cuộc sống. Chị đúng là một người vợ thực sự. Cùng Tràng trên đường về nhà “thị sắp cái thúng con đầu hơi cúi… có vẻ rón rén, e thẹn”. Nét e thẹn đó là bản tính rất nữ tính của con người. Như vậy, qua một vài chi tiết miêu tả ta thấy tâm tính của người phụ nữ này đang dần dần trở lại.

phan tich nhan vat nguoi vo trong vo nhat 4

Vẻ đẹp tâm hồn của người vợ nhặt được bộc lộ sâu sắc nhất khi chị ở nhà Tràng. Lúc về đến nhà Tràng, chứng kiến cảnh “cái nhà vắng teo, đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những núi cỏ dại”; Trong nhà “niêu bát xống áo vừa bừa bộn cả trên giường, dưới đất”, “cái lồng ngực lép nhô hẳn lên, nén một tiếng thở dài”. Thị đã ý tứ che giấu không cho Tràng viết phản ứng của mình. Đó là thái độ chấp nhận, dường như chị nghĩ rằng mình không nên đòi hỏi điều gì. Khi vào đến trong nhà, chị “ngồi mớm ở mép giường”. Đây là tư thế e thẹn, ngượng ngùng, rụt rè, lo âu của người con gái lần đầu bước chân về nhà chồng. Chi tiết này chứng tỏ nhà văn rất tinh tế. Tinh tế hơn nữa khi ông diễn tả cử chỉ “hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần”. Nét mặt này chứa đựng bao ngổn ngang suy nghĩ, e ngại xót xa, tủi cực cho số phận của mình. Nhưng chị không khóc, chị đã cố giữ để những giọt nước mắt khỏi tuôn trào. Điều đó chứng tỏ thị sống rất sâu sắc. Trước đó chị liều lĩnh theo Tràng để tránh được cái đói, để được sống. Bây giờ chị biết vươn lên hoàn cảnh để thực hiện khát vọng sống. Đặc biệt là buổi sáng hôm sau thị đã thực sự trở thành người vợ đảm đang. Cùng với bà, thị thức dậy sớm lo dọn dẹp nhà cửa, quét tước sân vườn sạch sẽ khiến Tràng cũng nhận ra sự thay đổi kỳ lạ của thị “trông thị hôm nay khác hẳn”. Rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực không còn vẻ gì chao chát,chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ngoại tỉnh. Không những thế, thị còn tỏ ra là người biết tu chí làm ăn. Cử chỉ ngồi với mẹ chồng rất lễ phép ngoan ngoãn. Có vẻ đến đây thiên tính nữ trong con người thị được bộc lộ rõ nét “Không hẳn người phụ nữ nào trong hoàn cảnh ấy cũng cư cử được như chị ta”. Khi thị hỏi bà cụ Tứ tiếng trống ồn ã ngoài đình và biết đó là tiếng trống thúc thuế, thị đã khẻ thở dài rồi chính thị là người đầu tiên kể cho cả nhà nghe chuyện “trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang, người ta không chịu đóng thuế nữa đâu, người ta còn phá kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy”. Câu chuyện ấy khiến Tràng ân hận và tiếc rẻ khi nhớ lại mình đã từng có dịp làm như thế mà chẳng làm. Ai biết rồi đây để chăm lo cho cuộc sống gia đình của mình, người phụ nữ này có khi cả gan hơn cả Tràng. Trong bữa cơm nghèo buổi sáng hôm ấy, chị cũng như bà cụ Tứ và Tràng đều thấy một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mình khi phải cố nuốt những miếng cám đắng chát và nghẹn ứ trong cổ họng. Bữa ăn đầu tiên của một nàng dâu mới đặt chân về nhà chống như vậy quả rất đáng tủi. Nhưng mẹ chồng đã có công dấu, chị điềm nhiên và lặng lẽ ăn. Chị cũng như hai mẹ con Tràng đều cố tránh nhìn mặt nhau, đều không muốn làm người khác phải buồn đau hơn. Kim Lân như muốn khẳng định “người phụ nữ dù rơi vào hoàn cảnh nào vẫn mang thiên tính nữ. Và rất tự nhiên họ khao khát một cuộc sống gia đình và vun vén cho mái ấm ấy”. Đó là điều rất đáng trân trọng, đáng ca ngợi.

Qua truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân đã khắc họa nhân vật người phụ nữ vợ nhặt rất thành công. Tác giả chú trọng khắc họa hành động, cử chỉ, nét mặt của nhân vật để người đọc hiểu được tâm lý của người phụ nữ. Nhà văn lựa chọn được những chi tiết rất phù hợp để bộc lộ số phận cũng như vẻ đẹp của nhân vật. Nhân vật người vợ nhặt nắm giữ vai trò khá quan trọng trong việc làm nổi vật chủ đề tư tưởng của tác phẩm đồng thời có vai trò quyết định trong việc hình thành nên tình huống truyện. Qua nhân vật này người đọc cũng thấu hiểu được tài năng cũng như tấm lòng của nhà văn. Người vợ nhặt – một nhân vật vô danh nhưng không vô nghĩa.

Kết luận: Phân tích nhân vật người vợ trong “Vợ nhặt”

Thông qua tâm lý của nhân vật người vợ nhặt diễn ra trong một tình huống đặc biệt, chủ đề của truyện ngắn được thể hiện một cách sâu sắc và cảm động: người lao động trong xã hội cũ cực khổ vô vùng, suốt đời không thoát khỏi đói nghèo, tuy vậy rất giàu tình yêu thương, họ khao khát một mái ấm gia đình. Và không có gì có thể cướp được ở họ niềm tin vào sức sống và tương lai. Chủ đề của tác phẩm vừa có ý nghĩa tố cáo xã hội, vừa có giá trị nhân bản sâu sắc.

Rate this post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *