
Đề bài: Phân tích diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ trong tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân.
NỘI DUNG TÓM TẮT
Mở bài: Phân tích tâm trạng của bà cụ Tứ trong “Vợ nhặt”
Trên thi đàn văn chương Việt Nam, nhắc đến sở trường viết truyện ngắn, người yêu văn không thể không nhớ tới Nam Cao – một giọng văn lạnh lùng, thờ ơ nhưng ẩn chứa bên trong tình cảm nhân đạo, nhân văn sâu sắc; nhà văn Nguyễn Tuân với phong cách “ngông” của con người tài hoa, uyên bác. Và sẽ là một thiếu sót nếu ta không nhắc tới nhà văn Kim Lân – một nhà văn cả đời đi về với mảnh đất nông thôn thuần hậu đã khẳng định vị trí của mình bằng “loại thể” truyện ngắn. Có một lần ông tâm sự trên báo Văn nghệ dự định ban đầu là viết Vợ nhặt thành một bộ tiểu thuyết trường thiên nhưng loay hoay thế nào lại chỉ ra được đúng sở trường truyện ngắn. Một trong những thành công của nhà văn Kim Lân trong truyện ngắn Vợ nhặt đó là việc nhà văn đã xây dựng được nhân vật bà cụ Tứ – một nhân vật có vẻ là phụ nhưng lại là mắt xích quan trọng của câu chuyện. Nếu thiếu đi chuỗi diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ thì Vợ nhặt thiếu hơi thở, thiếu sinh khí bởi vậy khi xây dựng tình huống anh cu Tràng nhặt được vợ, Kim Lân muốn thể hiện số phận bi thảm của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám và lòng khao khát tới hạnh phúc của họ. Nhưng xây dựng nhân vật bà cụ Tứ ở cuối tác phẩm, dường như Kim Lân muốn hướng người đọc nhìn nhận tới việc lấy vợ của Tràng từ một góc độ khác, trong một tâm trạng khác. Điều này được thể hiện rõ qua diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ.
Thân bài: Phân tích tâm trạng của bà cụ Tứ trong “Vợ nhặt”
Chân thật là “điểm đi” và cũng là “điểm đến” của nghệ thuật chân chính. Sức sống của nhân vật cũng do yếu tố này quyết định. Bởi khi sống với nhân vật, là như được sống với thế giới tâm hồn “thật hơn cả con người thật”. Đến với nhân vật bà cụ Tứ nhiều lúc ta có cảm giác là bà bước từ căn nhà rúm ró, tồi tàn của mình vào trang truyện chứ không hề do dụng công xây dựng của tác giả. Bà cụ Tứ xuất hiện trong câu chuyện khi trời nhá nhem tối. Khi ấy anh Tràng – con trai của bà cụ đã nhặt được vợ và đưa về. Là một người mẹ già, bà cụ Tứ ngày đêm mong con bà yên bề gia thất. Âu đấy cũng là niềm mong mỏi của các bậc làm cha mẹ trên trái đất này. Bà cụ Tứ như ngọn đèn trước gió chẳng biết tắt khi nào. Mong mỏi là vậy nhưng bà rất hiểu con trai mình: “phải cái thằng lông bông, cạn nghĩ, ai người ta lấy đến, lại gặp lúc khốn khó như thế này, biết bao giờ nó mới có vợ để mình mới có nàng dâu”.
Vì thế khi Tràng đưa vợ về, bà cụ Tứ ngạc nhiên vô cùng. Cái lẩm cẩm, chậm chạp theo nỗi “phấp phỏng” trước sự đón tiếp khác thưởng của cậu “con trai”. Nhà văn đã miêu tả sự ngạc nhiên của bà cụ Tứ khi bước vào nhà, rất chân thực. Bà đi hết từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Bà nhìn thấy người đàn bà lạ ở đầu giường con trai mình – đó là chuyện xưa nay chưa từng có. Thoạt tiên, bà tưởng cái Đục con gái bà: “nhưng nó chết từ năm ngoái rồi còn gì? Mà rõ ràng kia là người đàn bà! Bà không tin vào mắt mình nữa. Bà dụi mắt mấy lần vì ngỡ rằng đôi mắt đã già nua, mờ quáng của mình có lẽ nhìn không rõ”. Đáng nói nhất là chữ “nhoèn”, Kim Lân đưa vào vô cùng chính xác. “Mắt bà lão nhoèn ra thì phải” đúng là ánh mắt của người già! Bà cụ Tứ còn không tin vào tai mình nữa: “Người đàn bà xa lạ kia lại chào mình bằng u” vì không tin nên bà không trả lời. Trong lòng bà chỉ có vang lên một lời độc thoại “Ô hay, sao lại chào mình bằng u”. Cho đến khi Tràng chính thức giới thiệu: “Nhà tôi từ nay nó về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên, phải kiếp với nhau âu cũng là cái số cả”. Lúc này tấm lòng thương con giúp bà cụ hiểu ra mọi chuyện. Khi đã hiểu, “bà lão cúi đầu nín lặng”.
Bà lão đã cho ta hiểu cả một thế giới nội tâm phong phú bên trong cái vẻ ngoài lẩm cẩm của mình. Bà im lặng – mạch truyện lắng xuống, thiết tha: “Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao cơ sự, vừa ai oán, vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình…”. Không còn là câu trần thuật tâm lí, trong câu văn còn rưng rưng tấm lòng hòa cảm, ân tình của Kim Lân. Bà lão im lặng, lòng chất chứa bao nỗi niềm. Người gia thường cả nghĩ. Bà thương con để rồi lại tủi phận mình “Chao ôi! Người ta dựng vợ gả chồng cho con là trong lúc nhà ăn nên làm nổi, còn mình thì…”. Đọc đến dòng này ta có cảm giác trái tim người mẹ trong cái thân hình còm cõi đang run lên đau đớn, xót xa. Việc trọng đại đời con, lẽ ra “làm được dăm ba mâm cơm mới phải” nhưng “nhà mình nghèo quá” nên điều đó chỉ nằm trong suy nghĩ chứ không thực hiện được. Bà cụ thương con, tủi phận mình rồi lại thương dâu. Bà “đăm đăm nhìn người đàn bà” như để nhận mặt người đồng hành khổ cùng trong cuộc đời nghèo khổ với bao cảm thông. “Người ta có gặp trước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình”. Vừa mừng tủi, vừa lo lắng, bà lo nỗi lo rất chính đáng của con người đã từng trải qua một đời cực nhọc, đớn đau: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không”. Thương con dâu, bà cố nén cảm giác bất đắc dĩ trước sự việc đã rồi: “thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà chẳng lo lắng được cho con”.
Những lời độc thoại như những đợt sóng cứ cuộn lên trong lòng người mẹ, cứ da diết, xót xa trong lòng người đọc. Biết bao nhiêu là ân tình trong hai tiếng “mừng lòng” bà lão nói với các con. Bà cụ động viên con tin tưởng vào tương lai “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông trời cho khá… biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?…. Bà nói với con dâu bằng một lời từng trải – vừa lo lắng – vừa thương xót. “…Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá…” “Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa” nhưng ta hiểu, người con dâu bà lúc này sẽ rất hiểu bà, thấy thân thiết, gắn bó với bà, thực sự coi bà là mẹ và nghĩa là “đám cưới” đã xong. Chẳng lễ nghi, không đưa đón, tấm lòng chân thật, nhân hậu của người mẹ nghèo đã thay thế cho tất cả: đến đây chúng ta liên tưởng đến mẹ chồng Bần trong Một đám cưới của nhà văn Nam Cao. Người mẹ ấy mở “tài ăn nói”, nói rất nhiều, rất ngọt ngào để khỏa lấp cái sự không có nhiều tiền, làm “mát lòng mát ruột” cha Dần. Chao ôi, những người mẹ nông dân trước Cách mạng là thế ư? Tình yêu thương con, ý thức trách nhiệm của người làm mẹ khiến họ cưới vợ cho con bằng tất cả những khả năng mình có thể, dẫu chỉ là lời nói. Nhưng nếu mẹ chồng Dần nói rất nhiều thì bà cụ Tứ lúc này chỉ nói rất ít. Bà khóc “Nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”. Sau lời bộc bạch tâm tình với con dâu, bà lão lại hiện lên rõ nét hơn bao giờ hết trước đôi mắt nhòa lệ của người đọc. Những giọt nước mắt trong suốt từ đôi mắt đục mờ. Những giọt nước mắt lấp lánh tấm lòng mặn mòi là muối của đất, là muối của trái tim yêu thương dạt dào như biển cả.
Nếu như hôm trước bà cụ Tứ xuất hiện trong tác phẩm với khuôn mặt bủng beo, u ám thì sáng hôm sau khuôn mặt bà rạng rỡ hẳn lên. Có lẽ sau một đêm trăn trở, bà cụ Tứ nhận thấy ngày con mình thành vợ thành chồng bà chẳng có thứ tài sản gì cho con. Bà chỉ có thể cho con một thứ, đó là niềm vui, niềm động viên an ủi để đôi vợ chồng trẻ dựa vào đó, tránh cơn lũ khủng khiếp của nạn đói này cuốn trôi. Nghĩ vậy, sáng hôm sau thức dậy, bà cụ Tứ xuất hiện với một tâm trạng mới, một diện mạo mới. Bà nói nói cười cười toàn chuyện vui, toàn chuyện tương lai, bà “xăm xắn đi làm mọi việc”. Cơ chừng mọi công việc trong gia đình này đều do một tay bà cắt đặt. Đáng nói nhất là câu nói của bà cụ Tứ với con trai: “Tràng ạ, khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp kia làm chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem.
Rõ ràng câu nói của bà cụ Tứ là một chuỗi những tương lai. Tương lai này chưa thực hiện được thì tương lai khác đã thể hiện ra rồi. Tuy nhiên, đó không phải là những lời nói dối lòng mà nó là khát vọng của những con người đang sống trong cuộc sống tăm tối và hướng tới cuộc sống tươi sáng hơn. Đó là khát vọng chính đáng của con người. Có thể là bà chẳng còn sống mấy nữa. Nhưng bà sống vì con, tìm thấy ý nghĩa đời mình trong sự chăm lo, vun vén cho con. Cái gốc lạc quan yêu thương không những không tàn héo đi mà người lại càng xanh tươi hơn trong mưa nắng cuộc đời. Tâm tính ấy khiến bữa chè thành bữa tiệc, khiến nồi chè “chát xít, nghẹn bứ trong cổ” mà ngon ngọt trong lòng. Người đọc cười ra nước mắt trước sự hào hứng, vui vẻ khi bà lão lễ mễ bưng nồi cháo cảm nghi ngút khói lên nhà, đon đả tươi cười múc cho con. Dường như bà cố ý xua đi không khí ảm đạm, cố gắng vượt lên hoàn cảnh bằng sự tươi tỉnh, động viên con. Bên trong cái vẻ tươi tỉnh ấy ta biết lòng người mẹ đang thổn thức, xót xa. Lòng người đọc cũng dâng lên bao xót xa… Bởi vẫn còn đó bát cháo cám, vẫn còn đó tiếng trống thúc thuế dồn dập khiến niềm vui niềm vui không thể trọn vẹn. “Bà không dám để con dâu nhìn thấy mình khóc: còn người đọc thì thấy rất rõ những giọt nước mắt trong lòng bà, thấy rất rõ những giọt nước mắt của nhà văn khi viết về những dòng nay. Bằng tất cả sự trân trọng, Kim Lân đã để trái tim đập cùng một nhịp với trái tim người mẹ nông dân nghèo.
Từ sự ngỡ ngàng đến thoáng im lặng “hiểu ra biết bao cơ sở”, từ giọt nước mắt tủi phận nghèo, thương con dâu đến nỗi lo lắng đến niềm vui mừng, niềm tin vào tương lai… tất cả đen xen, hiện diện dưới ngòi bút của Kim Lân. Nhà văn đã đi sâu phân tích diễn biến tâm lí tinh tế của bà cụ Tứ, thể hiện một cách tài tình trong suy nghĩ, hành động, lời nói. Lối lo xa cho tương lai, lối nhìn người mà ngẫm đến mình, tủi phận mình hay sự duy tâm của người già “…chẳng may ra ông trời bắt chết cũng phải chịu chết chứ biết làm thế nào mà lo cho hết được”? Tác giả vừa hóa thân vào nhân vật để phân tích diễn biến tâm lí vừa khách quan ghi lại. Đặt nhân vật trong hoàn cảnh không gian, thời gian nhất định, Kim Lân đã diễn tả sâu sắc tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ ngửi “mùi đốt đống rơm ở những nhà có người chết thoáng vào khét lẹt” mà “nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út”, đến “cuộc đời cực khổ dằng dặc của mình” để rồi phấp phỏng lo lắng cho tương lai của con “liệu chúng nó có hơn bố mẹ chúng nó trước kia không”?
Nghệ thuật biện chứng tâm hồn đã thể hiện nhuần nhuyễn trong từng biến thái tinh tế, phong phú của tâm lí người mẹ nghèo. Hẳn Kim Lân phải có sự thấu hiểu, trân trọng đặc biệt, phải có một vốn sống phong phú mới có thể diễn tả tâm lí bà cụ Tứ đầy chân thực, tinh tế đến vậy. Ta nhớ đến câu nói của đạo văn hào Raytơ sau khi đọc xong Những người khốn khổ của Victo Huygo: “Chừng nào trên trái đất này còn có những người đau khổ và họ khao khát sống cuộc sống sáng sủa hơn thì những cuốn sách như thế này còn nguyên giá trị”. Có lẽ lời nhận định này cũng phù hợp với truyện ngắn của nhà văn Kim Lân.
Kết luận: Phân tích tâm trạng của bà cụ Tứ trong “Vợ nhặt”
Đòng cuốn sách lại người yêu văn vẫn như còn thấy hình ảnh bà cụ Tứ – một người mẹ nông dân nghèo khổ – hết lòng yêu thương con; hi sinh tất cả vì con. Trong hình ảnh bà cụ Tứ như thấy thấp thoáng hình bóng của mẹ Dần, mẹ chồng Dần (Một đám cưới), lão Hạc (Lão Hạc) – Nam Cao – Những con người biết sống cho con, vì con. Dẫu bà cụ Tứ trở thành một nhân vật điển hình trong văn học. Phải chăng chính người mẹ ấy là ánh sáng của thiên truyện ngắn đằng sau cái bóng tối bi thảm của kiếp người nghèo khổ? Ánh sáng ấy làm cho câu chuyện anh cu Tràng nhặt được vợ trở nên thấm thía, cảm động hơn, nâng truyện ngắn Vợ nhặt lên tầm cao mới, mang chiều sâu của một truyện ngắn hiện thực – nhân bản. Ánh sáng ấy bắt nguồn từ nguồn sáng nhân văn, trân trọng con người, tin tưởng ở con người sẽ sống mãi trong lòng người đọc.